Sạm da, rám má nguyên nhân và cách điều trị

 

Sạm da, rám má nguyên nhân và cách điều trị

 

Sạm da là tình trạng da của người bệnh đen sạm hơn so với da bình thường của chính mình. Sạm da có khi chỉ ở một vùng của cơ thể như rám má ở mặt, sạm da sau viêm, bớt sắc tố... Cũng có khi toàn thân đen sạm như trong bệnh lý của tuyến thượng thận (bệnh Addison), suy thận.

 

1. Nguyên nhân
Nguyên nhân của sạm da cũng rất phức tạp.

Sạm da do di truyền hay bẩm sinh: hội chứng Leopard (có bất thường về điện tim, hai mắt cách xa nhau, hẹp động mạch phổi, bất thường bộ phận sinh dục, phát triển chậm, điếc), hội chứng Peutz-Jeghers (đột biến nhiễm sắc thể làm xuất hiện nhiều nốt ruồi ở môi dưới cùng với polip ở dạ dày, ruột và các mảng sắc tố trên da), tàn nhang là các đốm màu nâu hay cà phê sữa, có khi khu trú ở mặt, có khi lan tràn toàn thân, bệnh nặng lên về mùa xuân hè, giảm về mùa đông, ngoài ra còn phải kể đến các bệnh khác như: hội chứng Calm (các mảng màu cà phê sữa kích thước từ 2 - 20 cm, xuất hiện rất sớm đẻ ra đã có, bệnh sắc tố Becker, bệnh nhiễm sắc tố đầu chi của Dohi, tăng sắc tố dạng võng đầu chi của Kitamura, bớt sắc tố Mông Cổ, bớt Ito, Ota hay bệnh nhiễm sắc tố dầm dề (do di truyền trội trên nhiễm sắc thể X, xuất hiện ngay sau đẻ, bệnh gây sạm da ở nữ giới nhưng gây chết người ở nam giới).

Sạm da do rối loạn chuyển hóa như bệnh nhiễm sắc tố sắt (tăng sắc tố màu thiếc hay màu đá xám, xuất hiện vùng da hở sau lan rộng ra. Bệnh thường xuất hiện ở nam giới tuổi trung niên kèm theo có gan to, tiểu đường và sắt huyết thanh cao). Bệnh thoái hóa bột (tăng sắc tố có tính đối xứng xuất hiện trong bệnh Lichen và thoái hóa bột thành mảng). Bệnh sạm da do hóa chất hay thuốc (hồng ban cố định nhiễm sắc), do dinh dưỡng gây sạm da trong bệnh thiếu vitamin A, B12, PP (sạm da ở vùng da hở).

Sạm da cũng do yếu tố vật lý như cháy nắng, rám nắng ở những vùng hở bộc lộ với ánh sáng mặt trời mà không được bảo vệ.

Đôi khi sạm da còn gặp trong một số bệnh: sạm da sau viêm hay nhiễm khuẩn, do khối u (các bớt sắc tố, u tế bào sắc tố), cũng có khi sạm da còn gặp trong một số bệnh hệ thống, nhiễm khuẩn toàn thân, u lympho, bệnh gai đen, xơ cứng bì, suy thận....

2. Biểu hiện lâm sàng

Rám má hay nám má với biểu hiện là các dát sắc tố màu nâu, xanh đen, hay đen sạm ở hai bên má, trán, cằm, mũi.

Các dát sắc tố thường sắp xếp đối xứng, kích thước có khi nhỏ, khi to.

Bờ của các vết sạm da rõ nhưng không đều, không có teo da, không bong vảy da và không có ngứa.

Bệnh hay gặp ở người uống thuốc tránh thai, trong khi mang thai, thời kỳ cho con bú, đôi khi còn gặp ở những phụ nữ thời kỳ tiền mãn kinh thậm chí có khi gặp ở phụ nữ trẻ chưa lập gia đình.

3. Điều trị

a-Nguyên tắc phải điều trị theo nguyên nhân:

Các bệnh tính chất bẩm sinh, di truyền phải hiệu chỉnh trong cấu trúc gen bệnh.

Sạm da do nhiễm khuẩn hay viêm phải dùng kháng sinh và các thuốc chống viêm, cháy nắng, rám nắng khi đi ra ngoài trời có biện pháp bảo vệ bằng kem chống nắng, áo dài tay, mũ rộng vành, kính...

Sạm da do hóa chất hay thuốc thì không được sử dụng thuốc hay hóa chất gây sạm da nữa, các khối u thì bằng phẫu thuật hay laser loại bỏ, sạm da do rối loạn nội tiết phải dùng thuốc điều hòa nội tiết...

b-Điều trị rám má và các sạm da khu trú

Hydroquinon 2 - 4%, acid Azelaic, vitamin A acid, corticoid, kem chống nắng với thời gian điều trị ít nhất là 6 tháng, các thuốc này có thể bôi đơn thuần hay phối hợp với 1 hoặc 2 loại khác nhau tùy theo chỉ định của thầy thuốc.

Kết hợp dùng một đợt kháng sinh phổ rộng nếu có viêm nhiễm (viêm phần phụ, viêm xoang, họng, ổ nhiễm trùng sâu...)

Phối hợp với các biện pháp khác như: ngừng dùng thuốc tránh thai nếu như đang sử dụng, hạn chế tiếp xúc với ánh sáng mặt trời và sử dụng các biện pháp bảo vệ khác khi ra nắng.

Trong một số trường hợp đặc biệt, khi các vết sạm da mà ở sâu dưới trung, hạ bì thì phải kết hợp điều trị hóa chất như đã nói ở trên với các phương pháp khác như siêu mài mòn, điều trị bằng laser mới cho hiệu quả mong muốn

c-Điều trị tăng sắc tố ở thượng bì hoặc hỗn  hợp (cả thượng bì và trung bì).

- Thuốc giảm sắc tố

- Kem chống nắng + thuốc giảm sắc tố da (Hydroquinone hoặc axit azelaic hoặc Leucodinin B...)

- Thuốc giảm sắc tố da + axit Retinoic

- Thuốc giảm sắc tố da + axit Retinoic + kem chống nắng

- Mỡ corticoid + thuốc giảm sắc tố da.

Kết hợp uống các loại vitamin nhóm A, B, E, L-cystin...........

- Thời gian điều trị 24 tuần hoặc 6 tháng

Chú ý: Tăng sắc tố ở trung bì hay hỗn hợp nếu điều trị hóa chất đơn thuần ít có kết quả, do vậy phải kết hợp các phương pháp: Siêu mài da, hóa chất + laser + điều trị nguyên nhân mới có thể cho kết quả

d-Một số thuốc điều trị tăng sắc

* Hydroquinone

Hydroquinone rất giống cấu trúc của monobenzen, tồn tại dưới dạng tinh thể hình kim, trắng và nhỏ. Chất này tan hoàn toàn trong nước và cồn, có hằng số pKa = 9,96 

Tính bền vững: Hydroquinone được bảo quản trong thùng kín, tránh ánh sáng. Khi để nó ra ngoài ánh sáng và không khí thì Hydroquinone bị sẫm màu và tương kỵ với kiềm, các muối của sắt và các chất oxy hóa.

Dược động học của Hydroquinone

Hydroquinone có tác dụng ức chế cạnh tranh với men tyrosinase, mà men này lại là một enzym khoá trong quá trình sinh tổng hợp sắc tố melanin (hình 2). Donatien PD, Hunt G, Pieron C đã nghiên cứu tác dụng của Hydroquinone trên các tế bào sắc tố của chuột cống trong môi trường nuôi cấy, cho thấy thuốc hoàn toàn không ảnh hưởng tới hoạt động của tế bào.Trên thực tế Hydroquinone không có tác dụng tẩy màu ở da bình thường. Hydroquinone đã ức chế gián tiếp enzym tyrosinase qua hệ thống enzym của màng tế bào là thioredoxin reductase (TRR) và enzym oxidase thioredoxin. Sở dĩ Hydroquinone có tác dụng làm giảm sắc tố da, ngoài tác dụng ức chế enzym tyrosinase, nó còn tác dụng lên hệ thống hô hấp của tế bào trong ty thể và thậm chí nó còn tác dụng lên DNA. Hydroquinone ức chế hô hấp của tế bào do nó ức chế hoạt động của các enzym trong ty lạp thể, dẫn đến quá trình tổng hợp ATP cũng bị ảnh hưởng. Khi bôi thuốc lên da động vật cho thấy Hydroquinone tăng vận chuyển melanin khỏi TB sắc tố. Các nhà dược lý cho rằng Hydroquinone cũng có thể ngăn chặn quá trình hình thành melanin. Không giống monobenzen, Hydroquinone không gây ra sự phá hủy TB sắc tố, cũng như không làm mất sắc tố vĩnh viễn. Sự tẩy màu có thể xảy ra trong 1 - 4 tháng, khi đó melanin hiện hữu bị mất đi cùng với sự lột da, còn melanin mới được hình thành bị thải ra nhanh hơn. Quá trình làm mất sắc tố thường kéo dài từ 2 - 6 tháng sau khi không tiếp tục trị liệu bằng Hydroquinone.

Ngoài ra Hydroquinone còn làm rối loạn hô hấp TB sắc tố dẫn đến cung cấp năng lượng cho hoạt động tế bào bị ảnh hưởng như sơ đồ hình dưới. 

Chỉ định, chống chỉ định và tác dụng không mong muốn

- Chỉ định: trong các bệnh da t¨ng s¾c tè nh: tàn nhang, rám má, xạm da......

- Tác dụng không mong muốn:

+ Viêm da tiếp xúc dị ứng.

+ Viêm da tiếp xúc kích ứng.

+ Khô da.

+ Nếu dùng lâu dài có thể làm cho da trở thành màu nâu xám.

- Chống chỉ định và thận trọng khi dùng Hydroquinone

+ Không bôi Hydroquinone gần mắt, da bị xây xước, cháy nắng, da nhiễm khuẩn, không được dùng đồng thời với thuốc làm rụng lông.

+ Để hạn chế tác dụng không mong muốn của Hydroquinone trước khi bôi thuốc vào vùng da định điều trị, nên bôi thử vào 1 vùng da bình thường bất kỳ (thường là cẳng tay trước hay sau lưng), nếu không thấy có phản ứng gì mới chính thức bôi thuốc.

+ Khi bôi thuốc tránh tiếp xúc với ánh sáng.

+ Không dùng Hydroquinone cho những bệnh nhân có dị ứng với thuốc hay bất cứ thành phần nào của thuốc.

+ Cẩn thận đối với trẻ em: mức độ hiệu quả và an toàn đối với trẻ em dưới 13 tuổi chưa xác định được.

+ Phụ nữ có thai và cho con bú: các nghiên cứu sinh sản trên động vật chưa được thực hiện với Hydroquinone bôi tại chỗ. Không rõ Hydroquinone có gây hại đến phôi thai khi phụ nữ có thai bôi thuốc hoặc thuốc có hấp thu qua sữa hay không. Do đó chỉ được sử dụng cho phụ nữ có thai và cho con bú khi thật cần thiết.

Liều lượng và cách dùng

- Cách dùng: Chỉ dùng đường bôi, không được uống.

- Liều lượng

+ Để tẩy sắc tố da, bôi 1 lớp mỏng kem hay dung dịch Hydroquinone và xoa mạnh lên vùng da bị bệnh 1 đến 2 lần mỗi ngày (buổi sáng và buổi tối).

+ Nếu sau 2 tháng dùng Hydroquinone để điều trị mà không thấy giảm sắc tố thì không dùng tiếp.

+ Khi đạt được mức độ giảm sắc tố mong muốn thì nên dùng Hydroquinone giảm liều để duy trì sự khử sắc tố, có thể bôi cách ngày trước khi dừng bôi.

*Axit Retinoic

Retinoid là những chất có cấu trúc và tác dụng sinh học giống hoặc tương tự như vitamin A. Trong tự nhiên nó tồn tại dưới 3 dạng: là retinol (vitamin A gốc rượu), axit Retinoic (vitamin A gốc axit) và retinal (gốc aldehyt).

+ Cơ thể chúng ta không tự tổng hợp được vitamin A, mà phải lấy từ bên ngoài vào qua hấp thu ở đường tiêu hóa dưới dạng vitamin A hoàn chỉnh. Vitamin A có nhiều trong dầu gan cá (nhất là cá thu) hay duới dạng tiền vitamin như các caroten (có nhiều trong gấc, bí đao, cà rốt….) sau đó thủy phân thành vitamin A. Dạng aldehyt và dạng axit chỉ xuất hiện trong cơ thể trong quá trình chuyển hóa vitamin A diễn ra. Axit Retinoic là chất tổng hợp được đưa vào cơ thể bằng đường uống hoặc bôi. Con người đã tổng hợp rất nhiều axit Retinoic và gồm 3 thế hệ, thế hệ 1 và 2 đã có trên thị trường, còn thế hệ 3 đang trong giai đoạn thử nghiệm.

+ Các axit Retinoic dùng tại chỗ hiện tại chủ yếu là ở thế hệ 1: tretinoin, isotretinoin, thuốc bôi có nồng độ từ 0,01% đến 0,1%. Nồng độ thấp 0,01% axit Retinoic được coi là các dạng mỹ phẩm. nồng độ 0,05% thường dùng để điều trị bệnh da tăng sắc tố.

Dược động học của axit Retinoic

- Axit Retinoic bôi trên da làm gián đoạn sự vận chuyển những hạt sắc tố melanin đã được hình thành trong tế bào sắc tố sang tế bào tạo sừng, nhất là TB sừng lớp đáy và cận đáy góp phần làm giảm sắc tố da.

- Axit Retinoic còn có thể ngăn cản một phần các hạt melanin được hình thành trong TB sắc tố, chuyển sang các đại thực bào ở trung bì.

Chỉ định, chống chỉ định, tác dụng không mong muốn của axit Retinoic

- Chỉ định: 
Các axit Retinoic dùng tại chỗ có chỉ định rất là rộng, nhiều tác giả cho rằng thuốc ngoài tác dụng chữa bệnh còn được coi như là một loại mỹ phẩm. Theo Fitzpatrick, Pathak dùng tại chỗ cho các bệnh dầy sừng: dầy sừng lòng bàn tay, bàn chân, bệnh vảy cá bẩm sinh… ¸ sừng dạng vảy nến, vảy nến, trứng cá (trừ trứng cá đỏ), các bệnh da có tăng sắc tố, thuốc được dùng chủ yếu dưới dạng kết hợp với 1 hoặc 2 thuốc khác, cũng có khi dùng đơn thuần nhưng rất hiếm. Ngoài ra còn dùng axit Retinoic bằng đường uống để chữa ung thư da.

- Chống chỉ định:

+ Không dùng thuốc cho những trường hợp dị ứng với bất kỳ thành phần nào của thuốc.

+ Nên dùng thuốc vào ban đêm vì dễ bị kích ứng khi tiếp xúc với ánh nắng.

+ Không được dùng thuốc với các sản phẩm chứa hương liệu hay cồn.

+ Không được dùng thuốc cho thời kỳ có thai và cho con bú.

- Tác dụng không mong muốn: Thuốc có thể gây đỏ da bong vảy và ngứa nhẹ. Có một số ít bệnh nhân có thể có cảm giác rát bỏng kèm theo đỏ da, bong vảy da. Những triệu chứng này sẽ thuyên giảm nếu được bôi mỡ corticoid và hạn chế bộc lộ với ánh sáng mặt trời.

Liều lượng và cách dùng:

- Mọi trường hợp đều phải theo chỉ định của bác sỹ. Thông thường nên thoa thuốc hàng ngày, tốt nhất vào buổi tối, nửa tiếng trước khi đi ngủ. Da phải thật khô (thoa 15 phút sau khi làm vệ sinh da bằng sữa rửa mặt hay xà phòng).

- Dạng kem: Lấy 1 lượng thuốc bằng hạt đậu lên da và xoa nhẹ nhàng trên thương tổn.

- Dạng thuốc nước: Cho vài giọt thuốc vào lòng bàn tay, dùng đầu ngón tay chấm và thoa. Sau khi dùng cần rửa sạch tay.

*Kem chống nắng

Đối với tia tử ngoại tuỳ thuộc vào độ dài của bước sóng người ta chia làm 3 loại: UVA, UVB, UVC. Gần như 100% các tia UVC được hấp thu bởi tầng ozôn, 99% UVB và UVA cũng được hấp thu chỉ còn một phần rất nhỏ các tia này qua tầng khí quyển tác động đến con người. Cơ quan chịu tác dụng nhiều nhất và trực tiếp của tia tử ngoại là da. Có nhiều bệnh ngoài da liên quan đến ánh nắng kể cả các loại ung thư da. Kem chống nắng vừa có tác dụng hấp thu phần lớn các tia tử ngoại, vừa phản xạ lại ánh sáng trắng góp phần bảo vệ da. Kem chống nắng thường được dùng để bảo vệ da cho những ai phải bộc lộ nhiều với ánh nắng như các vận động viên chơi các môn thể thao ngoài trời, những người tắm nắng, công nhân ngoài giàn khoan…..Ngoài ra nó còn được dùng phối hợp với một số thuốc bôi khác để điều trị một số bệnh, trong đó có bệnh da t¨ng sắc tố.

Ví dụ: Spectra BAN Ultra 28.

Hoạt chất: Butyl methoxydibenzoylme thone:

Hấp thụ tia cực tím A có bước sóng 320 – 400 nm.

Hoạt chất: Padimate O hấp thụ tia cực tím B có bước sóng 290 - 320 nm và có tác dụng gián tiếp đến sự giảm sắc tố của da.

e. Laser trong điều trị một số bệnh da tăng sắc tố

Trong những năm gần đõy dựng laser trong điều trị bệnh da tăng sắc tố đó cho kết quả khả quan. Theo lý thuyết cuả Anderson và Parrish các sắc tố da có thể bị phá hủy một cách chọn lọc bằng các xung ánh sáng với bước sóng thích hợp và độ dài cuả xung đủ ngắn. Cũng theo lý thuyết này đốt nóng sắc tố da bằng tia laser có thời gian lâu hơn thời gian tỏa nhiệt, thì nhiệt sẽ lan tỏa gây ra thương tổn nhiệt cho các mô và như vậy làm tăng nguy cơ gây ra sẹo. Ngược lại nếu sử dụng tia laser đơn sắc có độ dài của xung ngắn hơn thời gian tỏa nhiệt thì sẽ không xảy ra hiện tượng khuyếch tán nhiệt và như vậy tổn thương sẽ chỉ khu trú ở thượng bì và sẽ không tạo ra sẹo. Melanin hấp thu các bước sóng cực tím, ánh sáng trắng, các sóng gần với tia cực tím cho tới bước sóng 1000nm do vậy các bước sóng này có thể được sử dụng để ly giải mô bằng phương pháp quang nhiệt chọn lọc. Các nhà khoa học đã biết được thời gian tỏa nhiệt của các hạt melanin là vào khoảng từ 50-500 nano giây. Vì vậy laser có bước sóng mà sắc tố melanin hấp thu mạnh và có thời gian xung dưới Micro giây là an toàn và hiệu quả để điều trị các bệnh da tăng sắc tố. Các laser đó bao gồm laser hồng ngọc có bước sóng 694nm, laser màu xanh có bước sóng 504-510 nm và laser – YAG có bước sóng 1064 nm và tần số đó có thể được nhân đôi tạo ra sóng ánh sáng xanh nhìn thấy (532 nm) có thời gian xung khoảng 10 nano giây.

• Chỉ định:

Nối ruồi do ánh nắng, bớt cà phê sữa, bớt mông cổ, bớt Ito, bớt Ota, rám má, tổn thương tăng sắc tố sau viêm, xạm da do nhiễm độc.....

 

Bạn đang ở: Home Bệnh học Bệnh học về da Bệnh da do rối lọan chuyển hóa, nhiễm độc Sạm da, rám má nguyên nhân và cách điều trị