Viêm da mủ
- Chi tiết
- Chuyên mục: Bệnh da mủ
- Được đăng ngày 10 Tháng bẩy 2010
- Viết bởi Bác sĩ Huỳnh Văn Quang
- Lượt xem: 10037
I - Đại cương:
Bình thường trên da có nhiều tạp khuẩn, phần lớn là tụ cầu và liên cầu, nhiều nhất là ở những vùng lắm lông và lắm mồ hôi, các nếp kẽ, lỗ chân lông. Nơi tập trung mồ hôi, chất bã nhờn, bụi bẩn cũng là cửa ngõ để vi khuẩn xâm nhập vào da.
Trong những điều kiện thuận lợi như cơ thể suy yếu, vệ sinh kém, ngứa gãi, sây xát da,... tạp khuẩn trên da tăng sinh, tăng độc tố gây nên bệnh ngoài da gọi chung là viêm da mủ.
Người ta thường phân thành viêm bì mủ do tụ cầu và viêm bì mủ liên cầu, nhưng ít khi hai loại cầu khuẩn đó hoạt động riêng rẽ mà phần nhiều cùng phối hợp gây bệnh.
Điều trị viêm bì mủ không những chỉ điều trị chứng nhiễm khuẩn tại chỗ ngoài da, mà còn phải chú ý nâng cao sức đề kháng, thay đổi phản ứng của cơ thể, nhất là đối với viêm bì mủ mãn tính, tái phát dai dẳng.
Nguyên nhân: Viêm da mủ
* Do liên cầu (Streptigo) * Do tu cầu (Streptigo)
Chốc lây (impetigo) Viêm nang lông (folliculiti)
Chốc mép (Perleche) Đinh nhọt (furuncle)
Hăm kẽ (intertrigo) Hậu bổi: (Carbuncle, anthrax)
Chốc loét (ecthyma) Nhọt ổ gà (hidradenitis)
Viêm quầng (erysipile)
II- Viêm bì mủ do tụ cầu:
Tụ cầu thường gây tổn thương viêm nang lông, biểu hiện bằng những mụn mủ ăn khớp với lỗ chân lông, rải rác hoặc thành cụm ở bất cứ vùng da nào trừ lòng bàn tay, bàn chân.
Có những thể bệnh chính sau:
1/ Viêm nang lông nông(superficial folliculitis): (còn gọi là chốc Bockhart)
- Là tình trạng viêm nông ở đầu lỗ chân lông. Ban đầu lỗ chân lông hơi sưng đỏ, đau, sau thành mụn mủ nhỏ, quanh chân lông có quầng viêm. Vài ngày sau mụn mủ khô, để lại một vẩy tiết nâu xẫm tròn. Sau cùng vẩy bong không để lại sẹo.
- Vị trí thường gặp ở đầu, trán, gáy, cằm, lưng. Ở mi mắt gọi là chắp. Ở da đầu trẻ em thường để lại sẹo nhỏ, trụi tóc lấm tấm.
- Điều trị cũng giản đơn: chấm cồn Iốt 1-3%, dung dịch xanh methylen 1%. Bôi mỡ chloroxid 1%, kem silver, mỡ bactroban, mỡ fucidin
2/ Viêm nang lông sâu: (Deep folliculitis)
- Do tụ cầu vàng có độc tố cao.
- Ban đầu chỉ là mụn mủ quanh lỗ chân lông, nhưng nhiễm khuẩn ngày càng sâu làm cho tổ chức quanh nang lông nhiễm cộm. Viêm lan rộng và sâu hơn thành nhiều mụn mủ rải rác hoặc cụm lại thành đám đỏ, cứng cộm gồ gề nặn ra mủ.
- Viêm nang lông sâu ở vùng cằm, mép, gáy, ria tóc, đầu. gọi là Sycosis, tiến triển dai dẳng hay tái phát.
- Điều trị:
Tại chỗ bằng dung dịch sát trùng (cồn Iốt 1-3% xanh methylen 1%) mỡ kháng sinh Penixilin, Chloroxid 1%, oxyd vàng thuỷ ngân 10%. mỡ bactroban, mỡ fucidin.
- Nếu nặng cho uống từng đợt kháng sinh chung.
Kết hợp cho thuốc giải cảm, an thần, nếu cần có thể cho tiêm vacxin tụ cầu.
Tránh trà sát mạnh làm vỡ mủ, lan mủ ra vùng da lân cận.
3/ Đinh nhọt: (furoncle)
- Cũng là trạng thái viêm nang lông. Vì độc tố cầu khuẩn cao nên viêm toàn bộ nang lông, lan ra cả tổ chức xung quanh, nang lông hoại tử tạo thành "ngòi" gồm tế bào, xác bạch cầu.
- Vị trí hay gặp ở gáy, lưng, mông, các chi.
- Tiến triển ; Ban đầu nổi thành u đỏ, đau, quanh chân lông, nắn cứng cộm (Giai đoạn 1): Dần dần u mềm có triệu chứng ba động làm mủ, tạo ngòi. (Giai đoạn 2): Khoảng ngày thứ 8-10 nhọt mềm nhũn, vỡ mủ nặn ra một ngòi đặc sau đó lành sẹo (Giai đoạn 3).
Nếu đinh nhọt to có thể kèm theo sốt, nổi hạch đau ở vùng tương xứng
Đinh nhọt ở lỗ tai giữa rất đau, nhân dân gọi là "đằng đằng".
Đinh nhọt ở vùng quanh miệng gọi là "đinh râu" rất nguy hiểm, có thể gây nhiễm trùng huyết, không nên chích nặn sớm.
Điều trị: Không nên nặn chích sớm. Khi mới nổi sưng đỏ, cứng: chấm cồn I ốt 3-5% hoặc bôi ichthyol tinh chất, có điều kiện chạy sóng ngắn. Khi nhọt đã vỡ mủ nặn hết ngòi ra, chấm thuốc màu hoặc bôi mỡ kháng sinh, toàn thân cho uống hoặc tiêm một đợt kháng sinh như ceftriaxon 1g/ngày một đợt 5-7 ngày.
Tại chỗ: thay băng rửa bằng dung dịch sát khuẩn như dung dịch Rivanol 1%0, dung dịch Nitrat bạc 1% dụng dịch betadin pha loãng 1/10 cho sạch mủ ngòi tổ chức hoại tử, thay băng hàng ngày, không nên chích rạch, nạo vét.
Toàn thân: Kháng sinh liều cao và phối hợp kháng sinh như:
Cephalotin 1-3 g/ngày tiêm bắp kết hợp Nofloxacin 80mg 2 ống tiêm bắp.
Vitamin C, B1.
Nâng cao thể trạng, săn sóc ăn uống.
4/Hậu bối ( Anthrax)
Là cụm đinh nhọt có nhiều mủ, nhiều ngòi và có quá trình hoại tử phần mềm tổ chức da dưới da vùng đó. Hậu bối (carbuncle) còn gọi là đinh hương sen, là một cụm đinh nhọt gặp ở vùng gáy giữa hai bả vai, xương cùng. Do tụ cầu vàng độc tính cao, gây viêm lan sâu rộng đến chân bì và hạ bì làm hoại tử cả một vùng. Thường gặp ở người già, người suy yếu. Toàn thân bệnh nhân yếu mệt, sôt cao có triệu chứng nhễm khuẩn nhiễm độc nặng. tại chỗ là đám đỏ viêm tấy, sưng nề, kích thước 5-20 cm, đỏ tím có nhiều mủ, nhiều ngòi, lỗ chỗ như tổ ong. Có thể dẫn tới nhiễm khuẩn huyết,, ở mông và xương cùng gây hoại tử hoặc loét, cá biệt có khi chạm vào mạch máu to làm chảy máu ồ ạt.
Lâm sàng.
- Thường xảy ra ở người già yếu, lao, đái đường.
- Do tụ cầu trùng vàng độc tính cao.
- Vị trí gáy, lưng, xương cùng.
Đám mảng đỏ 5-10-20 cách mạng đường kính lúc đầu viêm đỏ, sưng tấy, gồ cao, đau, có nhiều ngòi, hoại tử tổ chức dưới da. Tổ thương lõm xuống, sâu 0,5 -1cm dần dần khi đỡ tổ chức hạt mọc đâỳ, biểu mô da bên ngoài dò ào hạc xơ hoá thành sẹo.
Diễn biến từ đầu đến khi lành khoang 1 tháng -1 tháng rưỡi tuỳ hậu bối to cần đề phòng biến chứng nhiễm khuẩn huyết.
Điều trị sớm bằng kháng sinh liều cao, phối hợp kháng sinh, sinh tố, thuốc nâng cao thể trạng. Khi đám tổn thương đã mềm thay băng hàng ngày, không chích rộng để tháo mủ vì dễ gây nhiễm khuẩn lan rộng.
5-Nhọt bầy là nhiều đinh nhọt mọc liên tiếp đợt này đến đợt khác, dai dẳng hàng tháng. Thường gặp ở người suy nhược lao tâm lao lực, hoặc đái đường.
- Điều trị:
Không nên nặn chích sớm. Khi mới nổi sưng đỏ, cứng: chấm cồn I ốt 3-5% hoặc bôi ichthyol tinh chất, có điều kiện chạy sóng ngắn. Khi nhọt đã vỡ mủ nặn hết ngòi ra, chấm thuốc màu hoặc bôi mỡ kháng sinh, toàn thân cho uống hoặc tiêm một đợt kháng sinh như ceftriaxon 1g/ngày một đợt 5-7 ngày. Chú ý cải thiện điều kiện sinh hoạt, làm việc điều hoà, tránh rượu, cà phê thuốc lá, ăn ít đường. dùng từng đợt thuốc kháng sinh, an thần, giải cảm. Chú ý chống táo bón, điều hoà chức phận gan, điều trị đái đường nếu có.
Đối với đinh râu: tuyệt đối tránh chích nặn bôi cồn iod 3%. Kịp thời tiêm uống thuốc kháng sinh liều cao, phối hợp kháng sinh, kết hợp sinh tố C, thuốc giảm đau, chạy sóng ngắn.
6 - Nhọt ổ gà (hidradenitis):
- Do viêm nang lông, kèm theo viêm tuyến hôi tuyến bã ở vùng nách thành túi mủ sâu ở chân bì và hạ bì.
- Nổi thành cục, ban đầu cứng sau mềm dần, vỡ mủ, rải rác hoặc thành cụm
- Tiến triển dai dẳng, hay tái phát nhất là về mùa hè.
- Điều trị:, bôi thuốc màu, mỡ kháng sinh, tiêm uống kháng sinh. Nếu cần giải quyết bằng phẫu thuật như chích nặn các ổ viêm xơ hóa.
III- Viêm bì mủ do liên cầu
1/ Chốc lây (Phỏng da- impetigo contagiosa)
Trên thực tế trong bệnh chốc, tụ cầu và liên cầu thường phối hợp với nhau. Trẻ em hay bị hơn người lớn.
- Thường bắt đầu ở đầu, cổ, mặt, các chi, từ đó lan ra các chỗ khác. Rất dễ lây nên còn gọi là chốc lây.
- Bệnh bắt đầu bằng một phỏng nước nhỏ, lùng nhùng hình tròn, xung quanh có quầng viêm đỏ. Nước ban đầu trong dần dần thành mủ đục giai đoạn phỏng nước và phỏng mủ rất ngắn. Chẳng bao lâu đóng vẩy tiết vàng kiểu mật ong. Dưới lớp vẩy là một lớp chợt đỏ, nông, vì tổn thương trong bệnh chốc rất nông.
Ở trẻ em chốc đầu thành từng đám vẩy vàng xẫm, dính bết tóc, dưới lớp vẩy da chợt đỏ, rớm nước. Ghẻ, và Eczema trẻ em dễ kèm theo chốc đầu.
Chốc rải rác toàn thân, có thể kèm theo sốt biến chứng viêm cầu thận cấp, nề cẳng chân, mi mắt do viêm cầu thận. Chốc thường gây hạch ở vùng tương ứng.
- Điều trị:
Chốc có nhiều vẩy: đắp gạc chấm rửa các dung dịch sát khuẩn sau đó bôi thuốc màu như dd xanh metilen 1%, dd tím methyl 1%, dd Milian.
Chốc có phỏng mủ chưa vỡ: dùng kim đã sát trùng chọc mủ ra, cho mủ thấm vào bông, không để mủ chảy lan ra vùng da lân cận. Sau đó chấm các loại thuốc màu như dung dịch milian xanh methylen 1%, dd eosin 2% hoặc mỡ kháng sinh. như mỡ chlorocid 1% kem silver, mỡ bactroban. Nếu có sốt, nổi hạch nhiều: cho thêm kháng sinh uống.
Khi tắm gội, tránh kỳ cọ mạnh lên tổn thương.
- Phòng bệnh: ở nhà trẻ cần phòng tránh lây lan không dùng chung chăn khăn mặt với người có bệnh.
2/ Chốc loét (ecthyma):
Là một thể chốc, nhưng tổn thương lan sâu đến trung bì.
- Thường gặp chốc loét ở bệnh nhân thiếu dinh dưỡng thiếu vệ sinh cơ thể yếu kém, có bệnh đái đường hoặc nghiện rượu.
- Vị trí thường ở chi dưới, nhất là ở chi có giãn tĩnh mạch.
- Bệnh bắt đầu như chốc, bằng một phỏng nước hoặc một phỏng mủ. Sau khi phỏng mủ vỡ, đóng vẩy dày màu vàng xẫm hoặc nâu đen, có vảy thành nhiều lớp đùn cao lên gọi là vảy ốc(rupia). Bóc vẩy để lại một vết loét đứng thành, nền tái, rớm mủ, ít nụ thịt. Da xung quanh vết loét tái tím, tiến triển dai dẳng, lâu lành.
Chốc loét nặng, tiến triển lâu ngày có thể thành loét sâu quảng. Vết loét có ranh giới rõ, thường là hình bầu dục, có khi có gờ, loét rộng và sâu nền bẩn, tổ chức da xung quanh xơ cứng, màu tái tím, tiến triển rất dai dẳng.
- Điều trị:
Rửa vết loét bằng dung dịch thuốc tím 1/4000, hoặc dung dịch rivanol 1%. Chấm dung dịch Nitrat bạc 0, 25- 0, 50%. Sau đó bôi mỡ kháng sinh. Toàn thân cho uống tiêm từng đợt kháng sinh.
Chiếu tia cực tím tại chỗ để kích thích lên da non.
Nâng cao thể địa bằng dinh dưỡng, sinh tố A, B1, C....
3/ Hăm kẽ (intertrigo)
Có tác giả gọi làviêm bì thượng bì vi khuẩn (dermoepidermite microbienne).
Thường gặp ở trẻ em, nhất là trẻ em mập mạp, hoặc ở người lớn béo mập, ra mồ hôi nhiều.
Vị trí: các nếp cổ, kẽ bẹn, kẽ mông, kẽ sau tai, có khi ở rốn, các ngấn da (đối với trẻ em thường gọi là hăm).
Các nếp kẽ trên thành đám đỏ, trợt, rớm dịch, phía ngoài thường có viền róc da mỏng. Do cọ sát, bẩn thỉu đám trợt loét chảy nước, chảy mủ, rất đau sót.
- Nguyên nhân: ngoài liên cầu, cần chú ý đến vai trò của nấm candida albicans (trên nền đỏ trợt, có mảng trắng như sữa, có viền róc da vằn vèo ở ngoại vi, soi cấy có nấm candida).
- Điều trị:
Rửa bằng nước thuốc tím 1/4000, chấm dung dịch yarish, nitrat bạc 0, 25%. Bôi thuốc màu, hồ nước, không nên bôi thuốc mỡ lép nhép. Rắc bột talc boric 3% có tác dụng tốt.
Đông y: chấm nước lá thồm lồm(đuôi tôm).
- Phòng bệnh: mùa hè đối với trẻ em cần năng tắm rửa, thay tã lót, rắc bột talc, phấn rôm vào các nếp kẽ.
4- Chốc mép(perlech):
Thường gặp ở trẻ em, đơn độc hoặc kèm theo các tổn thương khác do liên cầu:
- Hai kẽ mép bị nứt trợt, rớm dịch, đóng vảy vàng dẽ chảy máu, đau rát, làm trẻ khó bú.
- Thường kèm theo hạch đau dưới hàm.
- Điều trị: Chấm dung dịch yarish, Nitrat bạc 0, 25% thuốc màu, mỡ kháng sinh neomyxin, mỡ biomyxin 3%, mỡ chlorocid 1% mỡ fucidin, mỡ bactroban.
5. Viêm quầng (erysipelas)
- Căn nguyên Bệnh sinh:
Là một bệnh nhiễm khuẩn da và dưới da với chủng Streptococcus. pyogenes tăng độc tố. Trước kia bệnh này hay gặp và tử vong cao ngay cả khi nằm viện. Hiện nay ở trẻ sơ sinh, người già hoặc các bệnh nhân có kèm các bệnh khác... thì cũng nặng.
Vi khuẩn xâm nhập trực tiếp hoặc qua đường máu đặc biệt khi có các chấn thương ở các mô, sự mẫn cảm chung tăng lên, hoặc khi bệnh nhân thiểu dưỡng, nghiện rượu hoặc hạ gamma globulin bẩm sinh. Các tổn thương tại chỗ có xu hướng phù, viêm đường bạch mạch. Gần đây người ta nghĩ nhiều đến các khuyết tật của hệ thống lymphô có thể dẫn đên hay mắc bệnh Erysipelas.
Sự khu trú gọn, không rải rác có thể làm ta phân biệt được giữa Erysipelas và viêm mô tế bào (cellulitis)do liên cầu trùng và tụ cầu vàng.
. Lâm sàng.
Thời gian ủ bệnh 2- 5 ngày, sau đó sốt cao đột ngột, một đôi khi co giật ở trẻ em kèm với đau đầu, sốt rét và nôn mửa. Da vùng sắp tổn thương cảm thấy căng và ngày thứ 2 thấy đỏ, phù, bóng. Đám viêm quầng mầu đỏ tươi kích thước vài cm đến hàng chục cm, hơi cao hơn mặt da, nề, cộm, ranh giới rõ, có bờ con trạch gồ cao. Đau tự nhiên hay bóp vào thì đau. ở các vùng tổ chức lỏng lẻo có khi tạo phù nề mạnh (mi mắt, sinh dục) hoặc ban đỏ có giới hạn rõ và có thể thấy mụn nước ở ria hoặc có khi là đám phù nề, sưng nóng đỏ đau giới hạn rõ, ở giữa đám tổn thương là phỏng nước thậm chí loét hoại tử.
Không điều trị gì bệnh kéo dài từ 1- 3 tuần rồi khỏi dần, đám đỏ da giảm dần, bề mặt có thể xuất hiện róc vẩy da nhất là ở các vùng có mụn nước hay phỏng nước trước đây.
Vị trí thông thường của tổn thương là bụng- trẻ sơ sinh. Mặt, da đầu, tai, ở trẻ lớn hơn. ở người lớn gặp ở chân 50 % trường hợp, 35 % ở mặt, 3 % ở tai, còn có thể thấy xúât hiện tổn thương sau một nhiễm trùng ngoài da như loét sâu quảng. Mức độ phù thay đổi tuỳ từng vùng. Bên cạnh tổn thương bị nhiễm sắc, sáng và bong vẩy.
Triệu chứng toàn thân thường nặng ở những người có sức đề kháng yếu. Toàn trạng sốt cao li bì, hạch lymphô khu trú sưng đau. Có thể thấy biến chứng viêm nội tâm mạc, khớp, màng não, bạch cầu tăng cao công thức chuyển trái, albumin niệu.
Cân điều trị phối hợp với các biến chứng kèm theo như viêm cầu thận, áp xe dưới da, nhiễm trùng huyết. Nếu có biến chứng như vậy thì tỉ lệ tử vong 50 % ở trẻ em.
Bệnh có thể tái phát khi có sự giảm miễn dịch hoặc sự kéo dài của các yếu tố gây bệnh. Hệ lymphô bị phù nề, cơ thể mệt mỏi là dấu hiệu báo trước cho đợt cấp hay các đợt tái phát xuất hiện lại ở trên các vị trí cũ của bệnh.
- Điều trị.
Cần phải điều trị kháng sinh mạnh ngay từ đầu thường dùngtiêm 1 đợt Lincomycin, Gentamycin, thậm chí dùng claforal, Rocephin. Trong điều trị lưu ý nên phối hợp với điều trị triệu chứng giảm đau, chống viêm, an thần, sinh tố các loại