U mạch dày sừng của Fordyce

 

U MẠCH DÀY SỪNG CỦA FORDYCE
(Angiokeratoma of the Scrotum, angiokeratoma of Fordyce)


Năm 1896, John Addison Fordyce lần đầu tiên mô tả u mạch dày sừng của Fordyce ở da bìu của 1 bệnh nhân nam 60 tuổi. U mạch dày sừng là những sẩn màu xanh tới đỏ, 2-5mm, không có triệu chứng cơ năng; vị trí ở da bìu, dương vật, môi lớn, mặt trong đùi, hạ vị.


Dịch tễ học
Tần số: chính xác của bệnh không rõ, nhưng bệnh được coi là thường gặp và tăng theo tuổi.
Chủng tộc: bệnh thường gặp ở người da trắng và Nhật Bản; bệnh cũng gặp ở người da đen nhưng số lượng ít.
Giới: nam gặp nhiều hơn nữ.
Tuổi: bệnh gặp ở tất cả các lứa tuổi và tỷ lệ mắc bệnh tăng theo tuổi. Một nghiên cứu 1552 nam giới Nhật Bản thấy bệnh gặp ở tất cả các lứa tuổi và thường gặp nhất ở những người trên 40 tuổi.
Nguyên nhân chưa rõ.
Lâm sàng
Tổn thương là những sẩn hình vòm, màu đỏ sẫm hoặc màu xanh, màu đen, đường kính 1-6mm, trung bình khoảng 3mm, bề mặt có hiện tượng bong vảy nhẹ. Những bệnh nhân trẻ tổn thương thường nhỏ hơn, đỏ hơn; bệnh nhân cao tuổi tổn thương thường to hơn, sẫm màu hơn (màu xanh hoặc đen), bề mặt có nhiều vảy hơn. Số lượng tổn thương từ 1 đến rất nhiều (>100). Vị trí thường gặp nhất ở da bìu, ngoài ra còn gặp ở môi lớn, dương vật, mặt trong đùi, hạ vị. Tổn thương có thể chảy máu tự nhiên, khi giao hợp hoặc gãi, hoặc khi mang thai (tổn thương ở âm hộ phụ nữ có thai).
Hầu hết các tổn thương không có triệu chứng cơ năng, một số trường hợp đau, ngứa.
Điều trị
Chẩn đoán bệnh chắc chắn, giải thích cho bệnh nhân đây là bệnh lành tính. Can thiệp khi bệnh ảnh hưởng tới thẩm mỹ hoặc gây chảy máu nhiều.
Cắt tổn thương.
Cryotherapy.
Đốt điện.
Laser: laser hơi đồng 578nm, laser argon laser KTP (potassium-titanyl-phosphate) 532nm.